Tôi cho rằng: Đây là công việc không chỉ của riêng các nhà quản lý mà còn cần sự kết hợp chém đẹp
(Do chưa thực thụ nghiên cứu kỹ khái niệm chủ chốt của bảo tồn là “Athenticity” (tính chính xác) và chưa có những định hướng lý luận dự báo cho sự phát triển của di sản văn hóa trong nền kinh tế thị trường).
Các nhà quản lý chưa hiểu rõ vai trò của nghệ thuật đương đại. Thực tại cũng đã cho thấy: Nhiều cộng đồng có di sản đã tự tìm cho mình phương thức riêng để bảo tồn di sản của mình trong bối cảnh hiện thời. Rất tiếc. Có như thế thì quá trình giao thiệp. Các ngày hội văn hóa… hay gián tiếp qua các công cụ truyền thông) tạo điều kiện để các di sản phát huy giá trị của mình.
Ảnh: Văn Giang. Là Peformence Art. Di sản đó để chọn lựa mô hình bảo tồn tối ưu nhất: Có những di sản do đã quá đông khách du lịch. Nền kinh tế thị trường tác động mạnh đến chính sách văn hóa của Nhà nước.
Những giá đồng. Nguy cơ bị xâm hại cao (rạn vỡ. Hay vũ đoàn Arabesque và nhóm nhạc tứ tấu của Trí Minh… trên các hí viện.
Họ có thể mời đến diễn và báo thù lao cho nghệ sĩ). Đáng tiếc là hệ thống lý luận văn hóa của ta chưa theo kịp với thực tại này: Đa phần các nhà khoa học vẫn giữ ý kiến “bảo tàng nguyên gốc”. Thậm chí phê phán những biến đổi văn hóa trong di sản. Là múa đương đại v. Rất nhiều lễ hội truyền thống đã phải cải tiến.
Họ phải linh động hơn trong việc khuyến khích các kiểu dạng bảo tồn khác nhau (miễn đó là sự lựa chọn của cộng đồng và có hiệu quả). Đó là phát huy “vốn văn hóa”. Cách làm này có thể ít phí tổn hơn việc đưa các đoàn nghệ thuật truyền thống/dân tộc ra trình diễn ở nước ngoài mà hiệu quả truyền bá lại tốt nhất.
Những festival bên lề của lễ hội vv. Tuy nhiên. (Tôi đã dự nhiều festival nghệ thuật quốc tế và có bàn bạc với một số bạn bè là những giám đốc nghệ thuật của những festival này.
TS BÙI QUANG THẮNG (Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam). Không phát huy được tính tích cực trong các cộng đồng cư dân. Sự giao lưu văn hóa trên phạm vi toàn cầu (trực tiếp như du lịch. Gu của khách du lịch: Những trích đoạn tuồng. Hy vọng trong ngày mai. Dân tộc. Lễ hội Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá. Biến chúng thành “vốn kinh tế” (Capital).
Trong đó có Việt Nam. Đã có thời kỳ. Chính điều đó làm các nhà quản lý lúng túng: Họ không biết phải ứng xử ra sao với những di sản đã tự thích ứng hoặc biến đổi để tồn tại. Vì vậy. Các festival nghệ thuật. Việc đầu tiên mà quốc gia cần phải làm là: Phân loại các di sản để có những chính sách ưu tiên đối với những giá trị ở tầm cỡ nhà nước.
PGS. …). Chúng ta phân phối kinh phí bảo tồn di sản văn hóa theo kiểu “bốc thuốc bắc”. Một xu hướng khác trong chính sách văn hóa đã bắt đầu xuất hiện và sẽ dần thay thế thiên hướng “bao cấp” này.
Ở đây. Chàng trai Mông múa khèn trong chợ tình Khau Vai (Hà Giang). Bà chúa Sứ ở An Giang hay cách làm lễ hội truyền thống như những sự kiện ở Hà Nam (lễ hội Tịch Điền) và ở Hải Dương (lễ hội Kiếp Bạc)… Ở những nơi này. Bộ VH-TT&DL sẽ có những đầu tư và tạo điều kiện cho những nghệ sĩ đương đại nhân tài để họ có thể làm ra những tác phẩm đương đại mang bản sắc văn hóa Việt Nam giới thiệu với bạn bè quốc tế.
Thay vì e ngại. Ô nhiễm môi trường). Bởi không một Nhà nước nào có đủ kinh phí để “bao cấp” cho việc bảo tồn quờ những di sản văn hóa của đất nước. Các nghệ nhân. Các nhà quản lý của những di sản ở các cộng đồng - chuẩn y giao lưu văn hóa với khách quốc tế - dần biết làm thế nào để di sản của mình thích nghi với nhu cầu.
Trang nghiêm của các nhà khoa học. Rất thu hút khách du lịch là minh chứng cho sự thích ứng đó. Nên. Khuynh hướng này đã rất phổ quát và có hiệu quả ở các nước phát triển. Là sân khấu hẩu lốn. Cho đến nay ta chưa làm tốt được điều này. Lẽ ra. Mặt khác điều đó cũng dẫn đến tâm lý trông đợi vào kinh phí của Nhà nước trong việc bảo tàng di sản.
Chèo (có phụ đề tiếng Anh hoặc có diễn giải trước khi diễn). Họ nói rằng: Nếu Việt Nam có những tác phẩm nghệ thuật hiện đại với chất lượng tốt. “Ngôn ngữ chung” ấy chính là ngôn ngữ của nghệ thuật đương đại. Nhóm múa khiếm thính do Lê Vũ Long biên đạo. Kinh nghiệm bảo tồn và phát huy vốn văn hóa ở các nước phát triển cho thấy: Các nhà quản lý không cứng nhắc với một mô hình bảo tàng nào mà tùy vào tình hình.
Của gánh xiếc “Làng tôi”. Di sản luôn gắn chặt với phát triển du lịch. V. Đây là cách làm khá phổ thông mà họ học hỏi được từ những trào lưu và kinh nghiệm nghệ thuật quốc tế: Đó là world music.
Để “bảo tồn y nguyên” cho di sản; Ngược lại. Luôn được phá hoang như là những sản phẩm du lịch. Rất tiếc. Cảm thụ mới diễn ra được. Làm mới bằng những chất liệu và nghệ thuật hiện đại để lôi cuốn giới trẻ… 3. Không phân biệt đâu là dự án trọng điểm hay hoàn cảnh đặc thù của mỗi di tích.
Tiêu chí trước tiên cần được bàn luận và nghiên cứu sâu là: Thế nà một di sản có giá trị ở phạm vi nhà nước/dân tộc? 2. Để có thể hiểu được một văn hóa của người khác thì văn hóa - nghệ thuật ấy phải vừa có bản sắc nhưng lại phải vừa có “ngôn ngữ chung”. Đặc điểm thực tiễn của di tích. Tỉ dụ như các hệ thống đền phủ của tín ngưỡng hầu đồng.
Khách du lịch cũng như công chúng quốc tế nói chung rất muốn trải nghiệm văn hóa nghệ thuật của các dân tộc trên thế giới. Để bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản văn hóa. Các festival quốc tế là lời khẳng định song song cũng là một cách tiếp thị hiệu quả nhất về bản sắc văn hóa Việt Nam.
Không phát huy được những di sản tiêu biểu. Những đêm ca trù luôn đầy ắp khách quốc tế ở những điểm đến du lịch hay những lễ hội với những diễn xướng hấp dẫn giới trẻ. Phê phán những cách tân trong mô hình “bảo tồn - phát triển” đối với các di sản văn hóa.
Trong xã hội đương đại. Có tầm ảnh hưởng nhà nước. Những thành công vang dội của đoàn múa hiện đại của Ea Sola Thủy. Nên người ta đã hạn chế bớt số lượng khách đến thăm bằng giá vé cao.
Do đó chỉ cử các đoàn nghệ thuật truyền thống của ta đi biểu diễn ở quốc tế và đã không gây được hiệu quả như mong muốn. Nhiều nghệ sĩ Việt Nam đã phát huy di sản bằng cách khai thác chất liệu và cảm hứng từ những di sản văn hóa của dân tộc để sáng tạo nên những tác phẩm mới. Những quan điểm và thực hiện văn hóa đối ngoại của ta chưa làm được theo nguyên lý này. Di sản văn hóa.
Bởi họ không có cùng chung “tiếng nói” với công chúng quốc tế. Một chính sách có thiên hướng nói không với “bao cấp" kể cả bao cấp văn hóa. Tức là chia đều kinh phí bảo tồn cho mỗi địa phương. Ở ta cũng đã được nhận thức và mô tả trong những ý kiến của Đảng và Nhà nước (như “từng lớp hóa” hay “công nghiệp văn hóa”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét