Thực ra, đây là điều đang diễn ra ở nước ta

Trong khi đó, khả năng cải thiện nội dung và phương pháp giảng dạy hệ tại chức, để đáp ứng nhu cầu sử dụng của cả người học và thị trường lao động là rất thấp, nếu không có một điểm tựa nào để đột phá. Ba giải pháp nêu trên là khá hợp lý và toàn diện, vì chúng có liên tưởng đến chất lượng của cả ba khâu trong quá trình đào tạo gồm: đầu vào, quá trình đào tạo và đầu ra.
Ảnh: NAM SƯƠNG Sự kỳ thị đối với tấm bằng tại chức không còn là vấn đề mới mẻ. Đặc biệt, nhìn từ góc độ nhà trường và giảng sư thì rõ ràng phần nhiều các chương trình đào tạo tại chức chỉ được coi là "chương trình hạng hai", là "nồi cơm" của các thầy và của nhà trường, nơi trò không muốn học và thầy không muốn dạy, chỉ làm việc quấy quá cho xong.
Vậy phải có cách nào để vừa duy trì hệ đào tạo tại chức (hoặc một hệ đào tạo nào khác bên cạnh hệ đào tạo chính quy) theo chủ trương học tập suốt đời, đồng thời kết thúc việc tẩy chay người có bằng đương thứ, giải quyết dứt điểm tình trạng lãng phí thời kì, công sức của người học vì có bằng mà không dùng được như hiện giờ? Đã có nhiều ý kiến hay quanh vấn đề này.
Ở các nước tiền tiến trên thế giới, ví dụ như ở Mỹ và ở Ô-xtrây-li-a, yêu cầu đầu vào đối với các SV trưởng thành rất linh hoạt, thậm chí ưng cả những người chưa hoàn tất bậc THPT, nếu xét thấy quá trình làm việc và các kỹ năng đã tích lũy có thể bảo đảm việc học thành công của SV.
Cách làm này không sai về mặt pháp lý, nhưng thiếu tính nhân văn và sai về phương pháp vì chẳng thể ép người sử dụng lao động chấp thuận những viên chức kỹ năng kém làm việc cho họ.
Nhưng khâu đột phá đó có thể là gì? Không phải là tình cờ mà các nước có nền giáo dục tiên tiến rất chú trọng khâu kiểm định chất lượng. Chọn lựa trước hết là không can thiệp gì cả, mà để cho cơ chế thị trường tự điều chỉnh.
* Để hệ đương chức có thể được cải thiện thì Việt Nam cần chóng vánh thiết lập hệ thống kiểm định nghề, song song đưa yêu cầu về kiểm định thành một điều kiện tấm về năng lực.
Khi một chương trình được kiểm định thì tất cả những thông báo về nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, soát đánh giá người học, cơ sở vật chất phục vụ học tập, giảng dạy và nghiên cứu, sự ưng của SV, khả năng kiếm việc làm và thời cơ thăng tiến trong nghề nghiệp của cựu SV.
Và một khi đã được nhận vào học thì hoàn toàn không hề có sự phân biệt nào giữa các SV, tất cả mọi SV ra trường đều được cấp cùng một loại bằng như nhau. Còn nhớ năm 2010, dư luận đã một phen xôn xao khi báo chí đưa tin Sở Nội vụ của TP Đà Nẵng từ khước tuyển dụng các nhân viên có bằng tại chức.
Chính kiểm định cấp chương trình mới là khâu đột phá nhằm giải quyết vấn đề nan giải liên tưởng đến hệ đương chức tại Việt Nam. Đều được xem xét kỹ lưỡng, được đánh giá và đưa ra những yêu cầu cải thiện nếu có. Ảnh: THANH VŨ (TTXVN) VŨ THỊ PHƯƠNG ANH. Có thể nói, kiểm định chương trình chính là cơ chế kiểm soát bên ngoài để giúp các chương trình đào tạo luôn đi đúng hướng và đạt được mục tiêu mà mình đã đề ra

Nhưng dù xảy ra ở địa phương nào thì lý do để các tỉnh "nói không" với bằng đương thứ cũng chỉ có một thôi, đó là: chất lượng kém! Sự tồn tại của hệ đào tạo tại chức rõ ràng là đã từng và hiện vẫn đang còn cấp thiết để tạo điều kiện cho những người ngoài độ tuổi đi học truyền thống nâng cao trình độ và cải thiện dịp nghề.
Có thể nói, kiểm định chất lượng là bí quyết để thực hành thành công các giải pháp đã nêu ở phần trên. Bởi thế, nếu đấu duy trì hệ đương nhiệm như hiện nay thì cảnh xa trước mắt sẽ là sự tiếp kiến gia tăng tẩy chay đối với bằng đương nhiệm, không chỉ từ phía các nhà tuyển dụng mà còn từ các SV, vì đi học để làm gì khi tấm bằng tốt nghiệp không thể dùng? Tình trạng hiện nay của hệ đương chức đang đặt cơ quan chức năng trước một số chọn lọc.
Cần biết rằng, kiểm định chất lượng có hai cấp độ với các mục tiêu khác nhau là kiểm định cấp trường là điều mà hệ thống giáo dục Việt Nam đã quen, và kiểm định nghề nghiệp (còn gọi là kiểm định cấp chương trình đào tạo) có liên tưởng trực tiếp đến chất lượng đầu ra của sinh viên tốt nghiệp thì ở Việt Nam hoàn toàn chưa hề tồn tại.
Có như vậy mới nâng cao chất lượng loại hình đào tạo đương nhiệm. Điều quan yếu là cần đánh giá xem các giải pháp vừa nêu có thể khả thi trong điều kiện của chúng ta hay không? trước tiên, có thể thấy việc kiểm soát quy mô đầu vào đang được Bộ GD-ĐT tiến hành suốt mấy năm qua.
Các tổ chức kiểm định nghề có gắn kết rất chém với các hiệp hội nghề nghiệp nên họ hiểu rất rõ nhu cầu thị trường cần lao.
Điều này có tức thị nếu các cơ sở đào tạo nào không có khả năng đáp ứng thị trường cần lao thì tất nhiên sẽ không còn thu hút được người học, và hệ đương nhiệm của cơ sở ấy sẽ phải tự đóng cửa. Tuy nhiên, theo quan điểm đương đại về giáo dục thì đầu vào không phải là nguyên tố tác động có tính quyết định đến chất lượng.
Giờ lên lớp tại một khóa đào tạo đương thứ. Gần đây nhất, ông Trịnh Ngọc Thạch, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, nêu ý kiến về các giải pháp cần thực hành như sau: (1) Kiểm soát tốt đầu vào, tuyển sinh ở một quy mô vừa phải, căn cứ trên khả năng của cơ sở đào tạo; (2) Nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy cần hiệp với đối tượng sinh viên (SV), không bắt phải y sì với SV chính quy; (3) Chú trọng đáp ứng nhu cầu dùng của người học và của thị trường lao động.
Chọn lọc thứ hai là Nhà nước giúp các trường duy trì hệ đào tạo đương thứ bằng cách xử lý nghiêm những trường hợp tẩy chay bằng đương thứ. Tuyển lựa rút cục, và cũng là chọn lựa hợp lý nhất nếu có thể thực hành được, đó là tìm ra được một khâu đột phá trong cách quản lý hệ đào tạo này, từ đó cải thiện nó để nó tồn tại một cách xứng đáng trong hệ thống giáo dục của giang sơn. Đáng ra, với đối tượng SV trưởng thành (mature students - khái niệm gần tương đương với SV tại chức của Việt Nam, để chỉ những SV đã quá độ tuổi đi học đại học, thường tính từ 24 tuổi trở lên) thì không nên quá khe khắt như với SV học đúng tuổi.
Chương trình thiếu cập nhật, quá thiên về lý thuyết, không gắn với thị trường cần lao, phương pháp giảng dạy lạc hậu, đó chính là những điểm yếu trầm kha của giáo dục đại học Việt Nam, không chỉ riêng với hệ đương thứ mà còn cả với hệ chính quy. Tuy nhiên, tình trạng "tẩy chay" bằng đương nhiệm không hề giảm đi mà tiếp tục tăng lên, danh sách các địa phương được bổ sung thêm Nam Định năm 2011, Quảng Nam năm 2012 và giờ là hàng loạt các địa phương khác như Quảng Bình, Hà Nam, Hải Dương và cả Thủ đô Hà Nội.
Rất nhanh sau đó, Bộ GD-ĐT đã có chủ trương siết chặt việc quản lý đào tạo tại chức, bằng cách giao chỉ tiêu tuyển sinh dựa vào năng lực thực hiện của trường (trước đó cách làm này chỉ ứng dụng đối với hệ chính quy).
Sinh viên trọng tâm Đại học tại chức TP Cần Thơ trong giờ thực hiện vi tính. Tát, nếu bắt ép thì có lẽ quốc gia cũng chỉ có thể buộc các cơ quan và đơn vị công lập phải nhận SV đương nhiệm thôi, chứ không thể bắt ép các doanh nghiệp tư nhân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét