Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013

Việt Nam - Thách thức, nguy cơ và những giải pháp cho phát triển giang san giai đoạn 2010 - 2025 (Bài 2)

1. An ninh tài chính


Trong cục diện địa – thông báo toàn cầu, những đột phá của công nghệ truyền thông và viễn thông hiện đại đã phá tan bức tường không - thời gian, khiến cho một lượng khổng lồ các phi vụ giao dịch tài chính được thực hành qua các mạng tài chính điện tử toàn cầu, liên thông với nhau theo kiểu “Bình thông nhau”, với tốc độ cực nhanh, tạo nên một khối lượng tiền ảo đồ sộ, có giá trị gấp hàng trăm ngàn lần giá trị số lượng đồng tiền thật, khiến không một ai, hay nước nào, tổ chức nào có thể kiểm soát nổi. Điều này đã tạo thành cơn sóng thần tài chính, phá tan hệ thống tài chính nhà băng của các nước phát triển, Chỉ riêng ở nước Mỹ, nếu luân chuyển tiền tệ trong một tháng, mới chỉ ở mức hơn 3000 tỷ USD vào năm 1910, thì tới năm 2000, đã lên tới 571 nghìn tỷ USD, với hơn 100.000 giao tiếp tài chính hàng ngày.



Cuộc khủng hoảng tín dụng bất động sản ở Mỹ, bắt đầu từ nửa cuối năm 2007, đã lây lan trên quy mô toàn cầu một cách chóng vánh, khiến sờ soạng thị trường tài chính, tiền tệ thế giới bị dao động, thua. Nhiều tổ chức tài chính quốc tế hàng đầu thua lỗ nặng, đã gây hiệu ứng sụp đổ đối với ắt hệ thống ngân hàng ở các nước phát triển. Cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ, đã kéo theo Nhật Bản và các nền kinh tế lớn, nhỏ của châu Âu đều rơi vào suy thoái, như Đức, Pháp, Italia, Tây Ban Nha, cũng như các nền kinh tế mới chuyển đổi, như Ba Lan, Hungary, hay các nền kinh tế nhỏ như Iceland, hoặc các nước vùng Baltic, buộc Chính phủ các nước này phải chi ra hàng nghìn tỷ USD để chống đỡ, hoặc phải cầu cứu nguồn hỗ trợ từ bên ngoài. Các nền kinh tế dựa vào dầu lửa, như Saudi Arabia, Iran, Nga, Venezuela cũng đang nao núng. Giá cả tăng vọt vào cuối năm 2007 và đầu năm 2008 gây biến động lớn tại 30 nước. Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan - bốn con rồng châu Á, cũng bị ảnh hưởng nặng nề về kinh tế, dù đã bơm hàng chục tỷ USD. Các nền kinh tế mới nổi ở châu Á như Ấn Độ, Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Thái Lan… đang gánh chịu hệ quả của chiến lược định hướng xuất khẩu do nhu cầu tại Mỹ, châu Âu sụt giảm do khủng hoảng. Trong ít "Triển vọng Kinh tế Thế giới" (WEO) công bố trước hội nghị thường niên Mùa Xuân 2009, họp trong 2 ngày 25 và 26/4 tại Oa-sinh-tơn (Mỹ), IMF cho biết cuộc khủng hoảng hiện tác động bất lợi tới hoạt động thương mại quốc tế, với khối lượng thương nghiệp dự kiến giảm 11% năm 2009 kinh tế thế giới sẽ giảm 1,3% năm 2009, lần suy giảm đầu tiên trong 60 năm qua và chỉ tăng 0,6% năm 2010.


Qua cuộc khủng hoảng tài chính này, các nhà lãnh đạo các nước, các tổ chức và các định chế quốc tế có thể cũng có những nhận định sau đây:


1) Cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua đã ảnh hưởng tới mọi nước trong cục diên địa - chính trị thế giới.Việc giá dầu thế giới giảm mạnh từ 147 USD/thùng xuống còn dưới 50 USD/thùng đã gây ra những tác động thụ động đối với nhiều nước xuất khẩu dầu mỏ, như Nga, Venezuela, Iran, Irắc trong việc khôi phục hoạt động của các mỏ dầu ở các nước này, có thể buộc các nước này phải giảm bớt lập trường rắn rỏi trong chính sách đối ngoại, cũng như ngăn trở các nước đồng minh của Mỹ duy trì các chương trình chống khủng bố.


2) Cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua đã cho thấy vai trò và tầm quan yếu của quốc gia trong việc điều hành kinh tế vĩ mô.Nếu vào những thập kỷ rút cục của thế kỷ 20 đã thịnh hành môn phái kinh tế “Tân tự do” dựa trên 3 trụ cột là: Tự do hóa, Tư nhân hóa và Giải điều tiết, thì cuộc khủng hoảng lần này đã làm sụp đổ thuyết giáo đó và khơi dậy lại Lý thuyết Keynes về việc đề cao vai trò điều tiết vĩ mô của quốc gia đối với nền kinh tế. Chả hạn, do 5 nhà băng châu Âu sụp đổ, nên Chính phủ châu Âu phải tiến hành mọi biện pháp để đảm bảo và ứng cứu cho các nhà băng. Còn nước Mỹ, do sợ gặp phải khủng hoảng kép: là khủng hoảng ngành ngân hàng và tiền tệ, nếu đồng tiền USD bị sụp đổ, nên trong hai tuần biến động, FED và Bộ Tài Chính Mỹ đã quyết tâm ngăn sự sụp đổ tệ hại nhất của ngành ngân hàng bằng cách quốc hữu hóa hai công ty cho vay thế chấp lớn nhất nước Mỹ, là Fannie Mae và Freddie Mac, tiếp quản Tập đoàn bảo hiểm lớn nhất Mỹ AIG; nâng mức trần bảo hiểm tiền gửi, nhất thời cấm bán khống đối với các cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và cụ thể, đã chi 700 tỷ USD mua lại chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp, v.V..


3) Các nền kinh tế trong một thế giới được toàn cầu hóa hiện đang nằm trong sự tùy thuộc (Interdependence) ở mức độ cao.Đã xuất hiện một cơ chế xử lý khủng hoảng đại diện cho cả các nền kinh tế phát triển, lẫn các nền kinh tế đang phát triển - đó là G-20. Dù rằng cơ chế này chứa đựng không ít khuyết tật, song đây vẫn được coi là một “hiện tượng” mới của thời đại. Riêng Trung Quốc, tính đến cuối năm 2008, Trung Quốc đã đầu tư tổng cộng gần 900 tỷ USD vào việc mua công trái Chính phủ Mỹ; từ 550 đến 600 tỷ USD vào việc mua trái phiếu của các thiết chế tài chính liên hệ Chính phủ Mỹ, như Fannie Mae và Freddie Mac. Ngoại giả, Trung Quốc còn đầu tư khoảng 150 tỷ USD vào trái khoán của các doanh nghiệp; 40 tỷ USD vào cổ phiếu Mỹ. Nhìn ngoài mặt, dường như là Mỹ đang tùy thuộc vào Trung Quốc, nhưng về thực chất, đây là sự đầu tư nhằm giữa sự ổn định cho tổng số tài sản ngoại tệ của Trung Quốc, do Cục Quản lý Ngoại tệ quốc gia Trung Quốc, các nhà băng Nhà nước và Công ty Đầu tư Trung Quốc quản lý, tính đến cuối năm 2008, đã lên tới khoảng 2350 tỷ USD (tương đương 50% GDP của Trung Quốc), khi mà đồng USD đang có nguy cơ sụp đổ bất kỳ lúc nào tại thị trường tài chính quốc té.


4) Cuộc khủng hoảng tài chính lần này tại các nước phát triển nhất thế giới báo hiệu Thời đại Pax Americana - Nền hòa bình thế giới dưới sự bá chủ của Mỹ, sẽ chấm dứt.Trong một ngày mai không xa, thế giới sẽ sống trong nền hòa bình dưới sự bá chủ kinh tế của Trung Quốc - gọi là Pax Sinica, mà theo GS. Khoa Lịch sử kinh tế nổi danh, Niall Ferguson, trường Đại học Harvard (Mỹ) nhận định, thì đây “Không phải là sự tuyển lựa, mà là vấn đề thời gian và định mệnh".



2. An ninh năng lượng



Cho đến nay, phần đông các nguồn năng lượng mà chúng ta đang sử dụng đều bắt nguồn từ năng lượng hóa thạch, như than đá, dầu lửa, khí đốt - là các loại năng lượng dưới dạng tài nguyên không thể tái tạo lại, được phá hoang từ lòng đất và từ các đại dương. Trong giai đoạn tới đây, các nhà nghiên cứu cho rằng năng lượng tái hiện đóng một vai trò quan trọng trong bài toán an ninh năng lượng của mỗi quốc gia. Theo các dự báo chính thức, nguồn năng lượng tự nhiên giờ của thế giới, sẽ cạn kiệt trong thời kì tới, trong đó dự báo nguồn dầu lửa thương nghiệp trên thế giới sẽ chỉ còn đủ dùng khoảng 60 năm, khí tự nhiên 80 năm, than 150-200 năm.


Quỹ quốc tế bảo vệ động vật hoang dại (WWF) cho biết, con người đang dùng nguồn tài nguyên tự nhiên ở tốc độ nhanh hơn nhiều lần so với khả năng sản xuất ra nguồn tài nguyên mới của hành tinh. Theo vắng của WWF, hiện giờ con người tiêu thụ nhiều hơn 20% so với khả năng tạo ra nguồn tài nguyên mới của địa cầu. Trong tuổi 1970 - 2000, con người đã vỡ hoang và dùng hết tới 40% số lượng động vật sống trên cạn, nguồn nước và các loài sinh vật biển. Sự tiêu thụ nguồn nhiên liệu liệu như than, khí và dầu mỏ cũng tăng khoảng 700% trong giai đoạn các năm 1961 - 2000. Ông Martin, Người đứng đầu tổ chức WWF nhận định: "Chúng ta đang tiêu tốn nguồn tài nguyên nhanh hơn khả năng bình phục của nó. Chúng ta đã dùng nhưng không nghĩ đến chuyện phải "trả nợ" cho tự nhiên, trừ khi Chính phủ mỗi nhà nước phải thăng bằng được giữa nguồn tiêu thụ và tái hiện nó".

Do vậy, vấn đề an ninh năng lượng đang trở nên vấn đề cấp bách. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới nói chung và các nước ASEAN nói riêng, cũng đang hành động để tăng cường an ninh năng lượng. Lời giải cho bài toán này, đó cũng là các năng lượng tái tạo (năng lượng ác, gió, thủy triều, địa nhiêt, v.V.) Và tìm ra các nguồn năng lượng mới (hyđrô, nhiệt hạch, v.V.). Điều đó có thể góp phần xóa đi hàng loạt cuộc chiến tranh dầu mỏ, hay những cuộc khủng hoảng dầu mỏ…đang có nguy cơ xảy ra. Chẳng hạn, các mỏ dầu tụ hợp cốt ở các vùng, mà tình hình chính trị luôn bất ổn và mỗi khi khủng hoảng dầu lửa diễn ra, kinh tế thế giới lại biến động,… Đồng thời, chúng ta nên ngưng lại việc sử dụng tài nguyên một cách đại, hoang toàng và phải khôi phục lại những nguồn tài nguyên đã bị tiêu thụ một cách mất cân đối giữa sự phát triển và công nghiệp hóa của thế giới.


TS.NGUYỄN VĂN LẠNG

NGUYÊN THỨ TRƯỞNG BỘ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

NGUYÊN chủ toạ UBND TỈNH ĐẮK LẮK


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét