Quan hệ giữa chủ và người GVGĐ cũng theo cảm tính, chứ không có “chuẩn” nào, còn kỹ năng nghề của người GVGĐ so với tiêu chuẩn người GVGĐ của nước ngoài thì có khoảng cách lớn
11% số đàn bà được hỏi cho biết đã tìm việc thông qua trung tâm giới thiệu việc làm, còn lại 89% phê chuẩn mối quan hệ bạn xã hội, những người GVGĐ giới thiệu cho nhau… Đáng quan tâm, 47/100 người GVGĐ cho biết có hoàn cảnh đặc biệt như ly hôn, ly thân, góa bụa… 100% số nữ giới được hỏi cho biết họ phải làm sờ soạng các công việc trong gia đình như trông trẻ, đi chợ, thổi nấu, giặt giũ… với thời gian làm việc nhàng nhàng là gần 13 giờ/ngày.
Tính làng nhàng, thu nhập của người GVGĐ trên địa bàn Hà Nội là 3,1 triệu đồng/tháng, không bao gồm phí ăn, ở.
Trong 90% thỏa thuận bằng miệng thì chủ yếu thỏa thuận về lương, đặc biệt gần như thường ai có thỏa thuận về thưởng. Bà Lê Thị Thủy, Giám đốc trọng tâm Nghiên cứu hỗ trợ gia đình và phát triển cộng đồng nhận định: Về mặt từng lớp, nghề GVGĐ chưa được xã hội coi trọng, việc quản lý cần lao GVGĐ trên địa bàn dân cư nơi đến còn mang tính tự phát và chưa có quy định cụ thể, sự kiểm soát hành vi của từng lớp với người giúp việc nhập cư chỉ duyệt y mạng xã hội.
Điều đáng nói, các trọng tâm giới thiệu việc làm gần như thường quan tâm đến việc đào tạo kỹ năng nghề cho người GVGĐ.
Theo số liệu thống kê, có khoảng 10% người giúp việc bị bạo hành ý thức Hiện, cũng chưa có quy định buộc các trọng tâm giới thiệu việc làm phải quản lý và chịu nghĩa vụ về người GVGĐ mà mình đã môi giới.
G. Nên, nhóm nghiên cứu cũng khuyến nghị, Nhà nước cần có định hướng về quản lý và phát triển cần lao GVGĐ.
Đối với các địa phương, cần tổ chức tham vấn tại các trung tâm tổ chức cộng đồng cho người GVGĐ, sử dụng đường dây nóng để thông báo, tư vấn miễn phí các trường hợp cần thiết; xây dựng bộ chỉ số để đánh giá tiêu chuẩn người cần lao GVGĐ và chiến lược đào tạo nhân lực cho nghề GVGĐ. Thực tế đã xảy ra những chuyện như người giúp việc cho giày da vào máy giặt hay lấy dao để tháo quạt điện và làm quạt hỏng… Có tới 41/100 trường hợp cho biết từng có dị đồng giữa chủ và người GVGĐ; có 26% người GVGĐ từng gặp cảnh huống khó xử, trong đó 10% can hệ đến bạo hành ý thức (đe dọa, xúc phạm), 3% bị lạm dụng dục tình.
H. Cụ thể, hoàn thiện các quy định pháp luật về cần lao GVGD, có kế hoạch, lộ trình chuyên nghiệp thị trường lao động GVGĐ và ban hành các quy định cụ thể về trách nhiệm theo dõi, giám sát, cung cấp dịch vụ tầng lớp của các cơ quan quản lý quốc gia về lao động các cấp, các tổ chức xã hội.
Hiện Hà Nội có gần 300 trọng điểm giới thiệu việc làm, nhưng số các trung tâm có đào tạo kỹ năng cho GVGĐ chưa đến 1%. Đồng thời, phân cấp quản lý việc dùng cần lao GVGĐ từ cấp cơ sở, xác định cơ quan quản lý việc đào tạo tuyển dụng người GVGĐ, tăng cường soát việc tuân thủ pháp luật về cần lao GVGĐ và khuyến khích người cần lao tham dự các tổ chức, đoàn thể quần chúng tại địa phương làm việc.
Tuy nhiên, phần lớn người GVGĐ còn thiếu kỹ năng và phẩm chất cho công việc. Hiện, 90% quan hệ cần lao giữa chủ và người cần lao có thỏa thuận bằng miệng, 3% thỏa thuận bằng văn bản, còn 7% không có thỏa thuận.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét