Cùng với sự phát triển về số lượng, chất lượng của đội ngũ luật sư ở nước ta đã và đang từng bước được nâng lên, bước đầu đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và nhu cầu của xã hội. Hoạt động luật sư đã có những đóng góp quan trọng trong công cuộc cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, góp phần kiến lập môi trường pháp lý thuận tiện xúc tiến các hoạt động đầu tư, kinh dinh, thương nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, tổ chức và hoạt động hành nghề trạng sư vẫn còn một số hạn chế như chất lượng của hàng ngũ trạng sư còn chưa đáp ứng được đề nghị cung cấp dịch vụ pháp lý càng ngày càng cao của tầng lớp, đặc biệt là trong điều kiện cách tân tư pháp và hội nhập quốc tế. Hoạt động hành nghề trạng sư tuy đã có sự tăng trưởng về số lượng vụ việc nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu càng ngày càng tăng của tầng lớp; sự dự của trạng sư vào quá trình tố tụng còn hạn chế; tổ chức tầng lớp - nghề của trạng sư chưa thật sự phát huy hết các chức năng, vai trò tự quản của mình. Công tác quản lý quốc gia có lúc, có nơi chưa được quan hoài đúng mức, hiệu lực, hiệu quả quản lý quốc gia chưa cao. Trước đề nghị thực tại của hoạt động trạng sư và để tiếp thiết chế hóa ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị tại quyết nghị số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; quyết nghị số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 và Chiến lược phát triển nghề trạng sư đến năm 2020, tạo cơ sở pháp lý kiên cố nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trạng sư, đáp ứng tốt hơn đề nghị cách tân luật pháp, cách tân tư pháp và hội nhập quốc tế, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật trạng sư đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ tư phê duyệt ngày 20-11-2012. Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-7-2013. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật trạng sư có bảy nội dung mới, trước nhất là ở những quy định chung. Luật đã sửa đổi, bổ sung ba điều gồm Điều 3: Chức năng tầng lớp của trạng sư, Điều 6: Nguyên tắc quản lý trạng sư và hành nghề trạng sư, Điều 9: Các hành vi bị ngăn cấm và huỷ bỏ, Điều 8: Khuyến khích hoạt động giúp đỡ pháp lý miễn phí. Theo đó, Điều 3 được sửa đổi, bổ sung theo hướng làm rõ chức năng tầng lớp và nâng cao vị thế của trạng sư. Cụ thể là, hoạt động nghề của trạng sư nhằm góp phần bảo vệ công lý, đảm bảo công bằng tầng lớp, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ quyền, ích lợi hợp pháp của cá nhân chủ nghĩa, tổ chức, xây dựng quốc gia pháp quyền Việt Nam tầng lớp chủ nghĩa, phát triển kinh tế và xây dựng tầng lớp dân chủ, công bằng, văn minh. Điều 6 làm rõ nguyên tắc quản lý trạng sư và hành nghề trạng sư nhằm phát huy vai trò tự quản của tổ chức tầng lớp - nghề của trạng sư và tổ chức hành nghề trạng sư, tăng cường quản lý về trạng sư và hành nghề trạng sư. Điều 9 bổ sung một số hành vi bị cấm đối với trạng sư để nâng cao bổn phận nghề, bổn phận pháp lý của trạng sư. Nội dung mới thứ hai là những quy định về luật sư. Luật sửa đổi, bổ sung chín điều từ Điều 12 đến Điều 21. Cụ thể là, Điều 12 tăng thời gian đào tạo nghề luật sư từ 6 tháng lên 12 tháng. Bên cạnh đó, thời gian tập sự hành nghề luật sư được rút ngắn từ 18 tháng xuống còn 12 tháng nhằm bảo đảm tổng thời gian đào tạo nghề luật sư và thời gian tập sự hành nghề vẫn là 24 tháng. Điều 14 được sửa đổi, bổ sung theo hướng cho phép người tập sự hành nghề luật sư được thực hiện một số công việc nhưng dưới sự giám sát của luật sư hướng dẫn và được khách hàng đồng ý; đồng thời, bổ sung các điều kiện của luật sư hướng dẫn để tạo điều kiện cho người tập sự được rèn luyện về kỹ năng hành nghề của luật sư, bảo đảm chất lượng tập sự hành nghề luật sư, qua đó nâng cao chất lượng luật sư. Điều 15: Quy định về việc chuyển giao việc tổ chức rà soát kết quả tập sự hành nghề luật sư từ Bộ Tư pháp sang Liên đoàn luật sư Việt Nam. Quy định Hội đồng rà soát kết quả tập sự hành nghề luật sư cấp Giấy chứng nhận rà soát kết quả tập sự hành nghề luật sư. Các Điều 17, 18 và 19: Quy định rõ thủ tục cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư, các trường hợp bị khước từ cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư, thu hồi và cấp lại Chứng chỉ hành nghề luật sư. Quy định quờ quạng hồ sơ xin cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư nộp tại Sở Tư pháp nhằm nâng cao bổn phận của Sở Tư pháp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời, góp phần giảm bớt thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận tiện cho hoạt động hành nghề của luật sư. Điều 20 sửa đổi theo hướng đơn giản hóa hồ sơ và thủ tục gia nhập Đoàn luật sư, bảo đảm cho luật sư được chọn lọc Đoàn luật sư để gia nhập, đồng thời quy định người đã gia nhập Đoàn luật sư phải làm việc theo hiệp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư, hành nghề với tư cách cá nhân theo hiệp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư, hành nghề với tư cách cá nhân theo hiệp đồng lao động với cơ quan, tổ chức hoặc thành lập, dự thành lập tổ chức hành nghề luật sư. Bổ sung quy định về thủ tục chuyển Đoàn luật sư. Một nội dung mới, quan trọng là những quy định về hành nghề luật sư. Luật sửa đổi, bổ sung tám điều từ Điều 23 đến Điều 52. Theo đó, Điều 27: Được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ các loại giấy tờ mà luật sư cần xuất trình khi dự tố tụng hình sự với tư cách người ôm đồm và khi dự tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền, ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, hành chính, của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và bổn phận liên can trong vụ án hình sự; kì hạn cấp Giấy chứng nhận người ôm đồm, Giấy chứng nhận dự tố tụng của luật sư; các trường hợp luật sư bị khước từ cấp Giấy chứng nhận người ôm đồm và bổn phận của các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước khác và tổ chức, cá nhân trong việc tạo điều kiện thuận tiện cho luật sư thực hiện các quyền và bổn phận của mình. Nhằm bảo đảm quyền được ôm đồm của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, Luật quy định ngoài người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bất kỳ người nào cũng có thể yêu cầu luật sư cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Để người tập sự hành nghề luật sư có dịp cọ xát thực tại, Luật bổ sung quy định về việc dự tố tụng của người tập sự hành nghề luật sư. Điều 32: Bổ sung quy định người thành lập, dự thành lập tổ chức hành nghề luật sư phải có chí ít hai năm liên tục hành nghề trước đó và tổ chức hành nghề luật sư phải có trụ sở làm việc nhằm nâng cao chất lượng hành nghề luật sư. Điều 39: Bổ sung quy định quyền được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề cho trạng sư, đại diện cho khách hàng trước cơ quan, tổ chức theo quy định của luật pháp, các tổ chức hành nghề trạng sư được tham dự xây dựng chính sách, luật pháp của quốc gia; tham dự tham vấn, giải quyết các vụ việc của Chính phủ, các cơ quan quốc gia và doanh nghiệp quốc gia khi có đề nghị. Điều 45: Bổ sung quy định nguyên tắc về việc chuyển đổi giữa các loại hình thức tổ chức hành nghề trạng sư và giao Chính phủ chỉ dẫn về thủ tục cụ thể cho ăn nhập với luật pháp về đầu tư và doanh nghiệp, thông lệ hành nghề trạng sư trên thế giới nhằm tạo điều kiện cho tổ chức hành nghề trạng sư hoạt động ổn định. Điều 49 và Điều 50: Quy định chặt đẹp hơn về khuôn khổ hành nghề, thủ tục đăng ký của trạng sư hành nghề với nhân cách cá nhân chủ nghĩa theo hướng trạng sư hành nghề với nhân cách cá nhân chủ nghĩa chỉ được làm việc theo giao kèo cần lao cho cơ quan, tổ chức, không được cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng theo giao kèo dịch vụ pháp lý. Về tổ chức từng lớp - nghề của trạng sư, Luật sửa đổi, bổ sung bốn điều bao gồm Điều 60: Đoàn trạng sư, Điều 61: Nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn trạng sư, Điều 65: Nhiệm vụ, quyền hạn của Liên đoàn trạng sư Việt Nam, Điều 67: Điều lệ của Liên đoàn trạng sư Việt Nam và huỷ bỏ Điều 63: Điều lệ Đoàn trạng sư. Trong đó, Điều 61 và Điều 65: Bổ sung nghĩa vụ của tổ chức từng lớp - nghề của trạng sư trong việc tẩm bổ nép về chuyên môn nghiệp vụ, tẩm bổ về kỹ năng quản trị, điều hành tổ chức hành nghề trạng sư, thực hành thẩm tra, đánh giá hằng năm chất lượng hàng ngũ trạng sư. Một nội dung mới khác là Luật sửa đổi bảy điều về tổ chức hành nghề trạng sư nước ngoài tại Việt Nam gồm các Điều: 68, 69, 70, 72, 74, 76 và 82 quy định về: Điều kiện hành nghề của tổ chức hành nghề trạng sư nước ngoài; hình thức hành nghề của tổ chức hành nghề trạng sư nước ngoài; khuôn khổ hành nghề của tổ chức trạng sư nước ngoài, điều kiện hành nghề của trạng sư nước ngoài, khuôn khổ hành nghề của trạng sư nước ngoài; cấp, gia hạn Giấy phép hành nghề trạng sư tại Việt Nam cho trạng sư nước ngoài. Theo đó, Điều 76: Được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ khuôn khổ hành nghề của trạng sư nước ngoài. Điều 82: Được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ lớp lang, thủ tục cấp, gia hạn Giấy phép hành nghề trạng sư tại Việt Nam cho trạng sư nước ngoài. Về quản lý hành nghề trạng sư, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 83 quy định nghĩa vụ quản lý quốc gia về trạng sư và hành nghề trạng sư. Điều này được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định về nghĩa vụ quản lý quốc gia về trạng sư và hành nghề trạng sư, ăn nhập với các nội dung sửa đổi của Luật, song song bổ sung quy định về vai trò quản lý quốc gia của Sở Tư pháp trong việc giúp Ủy ban quần chúng thực hành quản lý quốc gia về trạng sư và hành nghề trạng sư tại địa phương. Một nội dung mới đáng để ý khác là quy định về xử lý kỷ luật đối với trạng sư, giải quyết tranh chấp. Luật sửa đổi, bổ sung Điều 89 theo hướng bổ sung quy định trạng sư nước ngoài vi phạm lệ luật đạo đức và xử sự nghề trạng sư Việt Nam thì Bộ Tư pháp thông tin cho tổ chức hành nghề trạng sư nước ngoài nơi cử trạng sư nước ngoài vào hành nghề tại Việt Nam. ngoại giả, trạng sư vi phạm có thể bị thu hồi hoặc coi xét không gia hạn Giấy phép hành nghề trạng sư tại Việt Nam. Bổ sung Điều 92a quy định về việc chuyển tiếp đối với việc nhập Đoàn trạng sư, hành nghề với nhân cách cá nhân chủ nghĩa và hành nghề của tổ chức trạng sư nước ngoài để đảm bảo các quyền của trạng sư, tổ chức hành nghề trạng sư không bị ảnh hưởng do các quy định mới của Luật. VŨ HOÀNG LONG (soạn) |
Thứ Ba, 16 tháng 7, 2013
Nội dung cơ bản của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư
Ngày 22-6-2006, kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI đã chuẩn y Luật luật sư. Đây là một bước tiến quan trọng trong quá trình đổi mới và hoàn thiện thể chế về luật sư ở nước ta. Sau năm năm thi hành Luật luật sư, đội ngũ luật sư ở nước ta đã và đang phát triển nhanh về số lượng với hơn 7.200 luật sư (tăng 250,8% so với trước khi Luật luật sư có hiệu lực) và gần 3.500 người tập sự hành nghề luật sư hoạt động trong hơn 2.900 tổ chức hành nghề luật sư. Hệ thống tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được củng cố từ trung ương đến địa phương.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét